Tại châu Âu, thị trường đang có xu hướng giảm trong tuần này do mỏ Troll ở Na Uy đang giảm sản lượng ngoài phạm vi kế hoạch bảo trì trước đó, tồn kho khí đốt tự nhiên tăng lên mức cao nhưng giảm, nhưng giá kỳ hạn TTF giảm do tồn kho trong khu vực giảm. bây giờ quá dồi dào.
Tại Hoa Kỳ, vào ngày 28 tháng 7, giờ địa phương, đường ống dẫn khí đốt tự nhiên bị hỏng gần Strasburg, Virginia, đã trở lại dòng chảy bình thường và việc cung cấp khí đốt tự nhiên đến kho khí đốt tự nhiên hóa lỏng Cove Point đã trở lại bình thường và Cảng Hợp đồng tương lai khí tự nhiên (NG) của Henry giảm sau khi tăng.
a) Tổng quan thị trường
Tính đến ngày 1 tháng 8, giá khí đốt tự nhiên Henry Port (NG) tương lai của Hoa Kỳ là 2,56 đô la Mỹ/triệu nhiệt Anh, so với chu kỳ trước (07,25) giảm 0,035 đô la Mỹ/triệu nhiệt Anh, giảm 1,35%; Giá khí đốt tự nhiên Hà Lan (TTF) tương lai là 8,744 USD / triệu BTU, giảm 0,423 USD / triệu Btu so với chu kỳ trước (07,25), tương đương 4,61%.
Tại Hoa Kỳ, giá hợp đồng tương lai tại Cảng Henry (NG) của Hoa Kỳ tăng và sau đó giảm trong tuần, nhiệt độ trong nước của Hoa Kỳ vẫn cao, nhu cầu sử dụng khí đốt tự nhiên trong nước lớn, nhưng vào ngày 28 tháng 7 theo giờ địa phương, đường ống dẫn khí đốt tự nhiên sự cố gần Strasburg, Virginia, đã nối lại dòng chảy bình thường và việc cung cấp khí đốt tự nhiên đến kho khí đốt tự nhiên hóa lỏng Cove Point cũng trở lại bình thường. Hợp đồng tương lai khí tự nhiên (NG) của Port Henry của Mỹ giảm sau khi tăng.
Về xuất khẩu, nhu cầu của thị trường Á-Âu ổn định trong tuần này, xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính sách giao thông của Kênh đào Panama, tốc độ di chuyển ở Đông Bắc Á bị hạn chế, xuất khẩu khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ bị buộc phải giảm và xuất khẩu của Hoa Kỳ đang giảm.
Từ góc độ kỹ thuật, hợp đồng tương lai Cảng Henry (NG) của Mỹ đang có xu hướng giảm, giá hợp đồng tương lai Cảng Henry (NG) của Mỹ ở mức 2,57 đô la Mỹ/triệu BTU, KDJ tiếp tục giảm sau death fork, đà giảm là lớn, chỉ báo MACD vẫn cho thấy xu hướng giảm sau death fork, càng về sau sẽ tiếp tục giảm, giá hợp đồng tương lai Henry Port (NG) của Mỹ trong tuần này cho thấy xu hướng giảm.
Tại châu Âu, lượng tồn kho trên thị trường châu Âu đã giảm, theo dữ liệu của Hiệp hội cơ sở hạ tầng khí đốt tự nhiên châu Âu cho thấy tính đến ngày 31 tháng 7, tổng lượng tồn kho ở châu Âu là 964Twh, tỷ lệ dung lượng lưu trữ là 85,43%, thấp hơn 0,36% so với ngày hôm trước.
Thị trường châu Âu đang có xu hướng giảm trong tuần này do mỏ Troll ở Na Uy đang giảm sản lượng ngoài phạm vi kế hoạch bảo trì trước đó, tồn kho khí đốt tự nhiên tăng lên cao nhưng giảm, nhưng giá kỳ hạn TTF giảm do tồn kho trong khu vực hiện quá dồi dào.
Kể từ ngày 1 tháng 8, Cảng Khí tự nhiên Henry (HH) của Hoa Kỳ dự kiến sẽ có giá giao ngay là 2,6 USD / mmBTU, giảm 0,06 USD / mmBTU, hay 2,26%, so với quý trước (07,25). Giá giao ngay của Khí đốt tự nhiên Canada (AECO) là 2,018 USD / mmBTU, tăng 0,077 USD / mmBTU, tương đương 3,99%, so với tháng trước (07,25).
Port Henry Natural Gas (HH) dự kiến giá giao ngay sẽ giảm và nguồn cung khí nguyên liệu Cove Point sẽ tiếp tục, nhưng Port Henry Natural Gas (HH) dự kiến giá giao ngay sẽ giảm do xuất khẩu LNG của Mỹ giảm do hạn chế dòng chảy của Kênh đào Panama.
Tính đến ngày 1/8, giá vé đến điểm Đông Bắc Á Trung Quốc (DES) là 10,733 USD/triệu BTU, giảm 0,456 USD/triệu BTU so với quý trước (07,25), giảm 4,08%; Giá giao ngay TTF là 8,414 USD / mmBTU, giảm 0,622 USD / mmBTU so với quý trước (07,25), giảm 6,88%.
Giá giao ngay của nơi tiêu dùng phổ thông có xu hướng giảm, nhu cầu ở châu Âu và châu Á nhìn chung vẫn ổn định, lượng hàng tồn kho trên thị trường địa phương vẫn đủ và thị trường vẫn duy trì tình trạng dư cung, dẫn đến sự sụt giảm trong giá giao ngay trên toàn quốc.
b) Hàng tồn kho
Tính đến tuần kết thúc vào ngày 21 tháng 7, theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Hoa Kỳ, tồn kho khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ là 2,987 tỷ feet khối, tăng 16 tỷ feet khối, tương đương 0,54%; Hàng tồn kho là 5.730 feet khối, tương đương 23,74%, cao hơn một năm trước. Đó là 345 tỷ feet khối, tương đương 13,06%, cao hơn mức trung bình 5 năm.
Trong tuần kết thúc vào ngày 21 tháng 7, theo dữ liệu của Hiệp hội Cơ sở hạ tầng Khí đốt Châu Âu, tồn kho khí đốt tự nhiên của Châu Âu là 3.309.966 tỷ feet khối, tăng 79,150 tỷ feet khối, tương đương 2,45%; Hàng tồn kho cao hơn 740,365 tỷ feet khối so với một năm trước, tăng 28,81%.
Tuần này, nhiệt độ ở Châu Âu và Hoa Kỳ tăng dần, nhu cầu về khí đốt tự nhiên trong khu vực cũng tăng lên, thúc đẩy mức tiêu thụ khí đốt tự nhiên tăng lên và thúc đẩy tốc độ tăng trữ lượng khí đốt tự nhiên ở Châu Âu và Hoa Kỳ. đã giảm, trong đó nguồn cung thượng nguồn tại Mỹ suy yếu, tốc độ tăng tồn kho giảm mạnh.
Xu hướng tồn kho khí tự nhiên quốc tế
c) Xuất nhập khẩu chất lỏng
Chu kỳ này (31/07-08/06) Mỹ dự kiến nhập khẩu 0m³; Sản lượng xuất khẩu dự kiến của Hoa Kỳ là 3700000m³, thấp hơn 5,13% so với sản lượng xuất khẩu thực tế là 3900000m³ trong chu kỳ trước.
Hiện tại, nhu cầu nhập khẩu LNG Á-Âu vẫn ổn định, do bị ảnh hưởng bởi các hạn chế dòng chảy của Kênh đào Panama, xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đã giảm.
a) Tổng quan thị trường
Tính đến ngày 2/8, giá trạm tiếp nhận LNG là 4106 nhân dân tệ/tấn, giảm 0,61% so với tuần trước, giảm 42,23% so với cùng kỳ; Giá của khu vực sản xuất chính là 3.643 nhân dân tệ/tấn, giảm 4,76% so với tuần trước và giảm 45,11% so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá thượng nguồn trong nước có xu hướng giảm, chi phí nguồn tài nguyên lỏng trong nước giảm, thúc đẩy các chuyến hàng thượng nguồn, các trạm tiếp nhận nói chung vẫn ổn định và giá vận chuyển chung trên thị trường giảm.
Tính đến ngày 2/8, giá LNG trung bình nhận được trên toàn quốc là 4.051 nhân dân tệ/tấn, giảm 3,09% so với tuần trước và giảm 42,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Nhu cầu hạ nguồn yếu, việc giảm giá ở thượng nguồn lấn át giá hạ nguồn và giá thị trường tiếp nhận giảm.
Tính đến ngày 2/8, tổng tồn kho của các nhà máy LNG trong nước là 306.300 tấn trong cùng ngày, tăng 4,43% so với kỳ trước. Do ảnh hưởng của bão, các chuyến hàng thượng nguồn bị chặn, doanh số bán hàng thượng nguồn tiếp tục giảm giá nhưng nhu cầu hạ nguồn yếu và hàng tồn kho tại nhà máy tăng cao.
Biểu đồ giá LNG trong nước
b) Cung cấp
Tuần này (07.27-08.02) 233 dữ liệu khảo sát tỷ lệ vận hành nhà máy LNG trong nước cho thấy sản lượng thực tế là 635.415 triệu vuông, tỷ lệ vận hành vào thứ Tư tuần này là 56,6%, giống như tuần trước. Công suất hoạt động hiệu quả của thứ Tư này là 56,59%, giảm 2,76 điểm phần trăm so với tuần trước. Số nhà máy mới dừng hoạt động và bảo dưỡng là 4, với tổng công suất 8 triệu mét khối/ngày; Số nhà máy mới hoạt động trở lại là 7 nhà máy, với tổng công suất 4,62 triệu mét khối/ngày. (Lưu ý: Công suất nhàn rỗi được định nghĩa là ngừng sản xuất trong hơn 2 năm; Công suất hiệu quả là công suất LNG sau khi loại trừ công suất nhàn rỗi. Tổng công suất sản xuất LNG trong nước là 159,75 triệu mét khối/ngày, với 28 lần ngừng hoạt động dài hạn, 7,29 triệu m3/ngày công suất nhàn rỗi và 152,46 triệu m3/ngày công suất hiệu dụng.
Về chất lỏng biển, tổng cộng 20 tàu chở LNG đã được tiếp nhận tại 14 trạm tiếp nhận nội địa trong chu kỳ này, với số lượng tàu tiếp nhận 1 tàu ít hơn tuần trước và lượng cập cảng là 1,403 triệu tấn, tăng 13,33% so với tuần trước. 1,26 triệu tấn vào tuần trước. Các quốc gia nhập khẩu chính trong chu kỳ này là Australia, Qatar và Nga, với lượng nhập khẩu lần lượt là 494.800 tấn, 354.800 tấn và 223.800 tấn. Về các trạm tiếp nhận, CNOOC Dapeng và State Grid Diafu nhận 3 tàu, CNOOC Zhuhai và State Grid Thiên Tân mỗi nơi nhận 2 tàu, các trạm tiếp nhận khác mỗi nơi nhận 1 tàu.
c) Nhu cầu
Tổng nhu cầu LNG trong nước trong tuần này (26/07-08/01) là 702.900 tấn, giảm 10.500 tấn, tương đương 1,47% so với tuần trước (19/07-07/25). Xuất khẩu của nhà máy trong nước đạt tổng cộng 402.000 tấn, giảm 0,17 triệu tấn, tương đương 0,42% so với tuần trước (19/07-25/07). Doanh số bán hàng lỏng của nhà máy giảm giá, nhưng do bão đi qua, ảnh hưởng đến các chuyến hàng thượng nguồn nên tổng lượng hàng xuất xưởng trong nước giảm nhẹ.
Về mặt chất lỏng đường biển, tổng lượng hàng xuất đi của các trạm tiếp nhận trong nước là 14327 xe, giảm 2,86% so với 14749 xe của tuần trước (19/07-07/25), đồng thời mức giảm chung về giá của các trạm tiếp nhận cũng nhỏ hơn và doanh số bán ra thị trường bán kính bị thu hẹp, dẫn đến lượng vận chuyển xe tăng giảm.6
Thời gian đăng: 04-08-2023