tin tức

Thị trường châu Âu vẫn ở mức cao và biến động trong tuần này, đồng thời tình hình ở Trung Đông buộc Chevron phải đóng cửa mỏ khí đốt ngoài khơi ở Syria, và thị trường tiếp tục hoảng loạn, nhưng giá tương lai của TTF vẫn cao và biến động do tình trạng dư cung trên thị trường hiện tại.

Tại Hoa Kỳ, do nhu cầu trì trệ và sự hoảng loạn suy yếu, xuất khẩu LNG của Hoa Kỳ đã giảm trong tuần này, xuất khẩu giảm và nguồn cung khí thô từ các kho cảng xuất khẩu suy yếu, nhưng do sự thay đổi của hợp đồng tương lai NG trong tháng này, giá khí đốt tự nhiên ở Hoa Kỳ đã tăng lên.

a) Tổng quan thị trường

Tính đến ngày 24 tháng 10, giá khí đốt tự nhiên Henry Port (NG) tương lai của Hoa Kỳ là 3,322 đô la Mỹ/triệu nhiệt Anh, so với chu kỳ trước (10,17) tăng 0,243 đô la Mỹ/triệu nhiệt Anh, tăng 7,89%; Giá khí đốt tự nhiên Hà Lan (TTF) tương lai là 15,304 USD / mmBTU, tăng 0,114 USD / mmBTU so với chu kỳ trước (10,17), hay 0,75%.

Tại Hoa Kỳ, giá hợp đồng tương lai tại Cảng Henry (NG) của Hoa Kỳ cho thấy xu hướng phục hồi sau đợt giảm tổng thể trong tuần, giá khí đốt tự nhiên tương lai của Hoa Kỳ cho thấy xu hướng giảm trong tuần này, nhưng do tác động của thay đổi hợp đồng, Giá hợp đồng tương lai NG tăng.

Về phía xuất khẩu, xuất khẩu LNG của Mỹ giảm trong tuần này do nhu cầu trì trệ và tình trạng hoảng loạn suy yếu, đồng thời xuất khẩu cũng giảm.

Từ góc độ kỹ thuật, hợp đồng tương lai Cảng Henry (NG) của Hoa Kỳ đang ở trạng thái thấp để tăng, giá tương lai của Cảng Henry (NG) của Hoa Kỳ lên tới 3,34 đô la Mỹ / triệu Cơn sốt ở Anh gần, mức thấp KDJ sắp tăng lên của fork, MACD dưới mức chạm đáy bằng 0, xu hướng giảm đã dừng lại, giá hợp đồng tương lai Henry Port (NG) của Hoa Kỳ trong tuần này cho thấy xu hướng phục hồi giảm.

Tại châu Âu, tồn kho trên thị trường châu Âu tiếp tục tăng, theo dữ liệu của Hiệp hội cơ sở hạ tầng khí đốt tự nhiên châu Âu cho thấy tính đến ngày 23 tháng 10, tổng tồn kho ở châu Âu là 1123Twh, với tỷ trọng công suất là 98,63%, tăng 0,05% so với ngày hôm trước và lượng hàng tồn kho tăng đều đặn.

Thị trường châu Âu vẫn ở mức cao và biến động trong tuần này, đồng thời tình hình ở Trung Đông buộc Chevron phải đóng cửa mỏ khí đốt ngoài khơi ở Syria, và thị trường tiếp tục hoảng loạn, nhưng giá tương lai của TTF vẫn cao và biến động do tình trạng dư cung trên thị trường hiện tại.

Tính đến ngày 24 tháng 10, Cảng khí tự nhiên Henry (HH) của Mỹ dự kiến ​​sẽ có giá giao ngay là 2,95 USD / mmBTU, tăng 0,01 USD / mmBTU so với quý trước (10,17), tăng 0,34%. Giá giao ngay Khí đốt tự nhiên Canada (AECO) là 1,818 USD / mmBTU, tăng 0,1 USD / mmBTU so với tháng trước (10,17), tăng 5,83%.

Henry Port Natural Gas (HH) kỳ vọng giá giao ngay duy trì ổn định, xuất khẩu LNG suy yếu, nhu cầu thị trường tiêu dùng chính ngoài khu vực vẫn ổn định, không có sự hỗ trợ tích cực rõ ràng, Henry Port Natural Gas (HH) dự kiến ​​​​sẽ duy trì giá giao ngay ổn định .

Tính đến ngày 24/10, giá điểm đến Đông Bắc Á đến Trung Quốc (DES) là 17,25 USD/triệu BTU, tăng 0,875 USD/triệu BTU so với quý trước (10,17), tăng 5,34%; Giá giao ngay TTF là 14,955 USD / mmBTU, tăng 0,898 USD / mmBTU so với quý trước (10,17), tăng 6,39%.

Giá giao ngay của người tiêu dùng chính thống đang có xu hướng tăng, người tiêu dùng chính hiện nay hoảng loạn, tâm lý đầu cơ thị trường mạnh mẽ, người bán thượng nguồn bán giá cao, khiến giá tiêu dùng chính tăng lên.

b) Hàng tồn kho

Trong tuần kết thúc vào ngày 13 tháng 10, theo Cơ quan Năng lượng Hoa Kỳ, tồn kho khí đốt tự nhiên của Hoa Kỳ là 3,626 tỷ feet khối, tăng 97 tỷ feet khối, tương đương 2,8%; Hàng tồn kho là 3.000 feet khối, tương đương 9,0%, cao hơn một năm trước. Đó là 175 tỷ feet khối, tương đương 5,1%, cao hơn mức trung bình 5 năm.

Theo Hiệp hội Cơ sở hạ tầng Khí đốt Châu Âu, trong tuần kết thúc vào ngày 13 tháng 10, lượng tồn kho khí đốt của châu Âu đứng ở mức 3.926,271 tỷ feet khối, tăng 43,34 tỷ feet khối, tương đương 1,12% so với tuần trước. Hàng tồn kho là 319,287 tỷ feet khối, tương đương 8,85%, cao hơn một năm trước đó.

Tuần này, tồn kho khí đốt tự nhiên của Mỹ tăng đều đặn, do giá giao ngay cao, khiến các nhà nhập khẩu có thái độ chờ đợi nhiều hơn, nhu cầu mua giao ngay tại thị trường tiêu dùng chính giảm mạnh, tốc độ tăng trưởng hàng tồn kho của Mỹ tăng. Tồn kho ở châu Âu tăng trưởng ổn định, hiện tăng lên gần 98%, và tốc độ giảm tăng trưởng tồn kho dự kiến ​​sẽ chậm lại trong thời gian tới.

c) Xuất nhập khẩu chất lỏng

Mỹ dự kiến ​​sẽ nhập khẩu 0m³ trong chu kỳ này (23-10,29); Hoa Kỳ dự kiến ​​sẽ xuất khẩu 3.900.000 m³, thấp hơn 4,88% so với lượng xuất khẩu thực tế là 410.00.000 m³ trong chu kỳ trước.

Hiện tại, nhu cầu yếu ở thị trường tiêu dùng chính và lượng hàng tồn kho cao đã khiến xuất khẩu LNG của Mỹ sụt giảm.

a) Tổng quan thị trường

Tính đến ngày 25/10, giá kho LNG là 5.268 nhân dân tệ/tấn, tăng 7% so với tuần trước, giảm 32,45% so với cùng kỳ năm ngoái; Giá của khu vực sản xuất chính là 4.772 nhân dân tệ/tấn, tăng 8,53% so với tuần trước và giảm 27,43% so với cùng kỳ năm ngoái.

Giá thượng nguồn có xu hướng tăng. Do chi phí của nhà máy chất lỏng Tây Bắc tăng cao và giá giao ngay của chất lỏng biển cao, giá đầu nguồn tăng lên và các chuyến hàng được thúc đẩy bởi giá vận chuyển tăng cao.

Tính đến ngày 25/10, giá LNG trung bình nhận được trên toàn quốc là 5208 nhân dân tệ/tấn, tăng 7,23% so với tuần trước và giảm 28,12% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguồn lực thượng nguồn bị ảnh hưởng bởi chi phí vận chuyển, khiến thị trường đón nhận giá hàng hóa cao hơn.

Tính đến ngày 24/10, tổng tồn kho của các nhà máy LNG trong nước là 328.300 tấn trong cùng ngày, giảm 14,84% so với kỳ trước. Khi thượng nguồn liên tục tăng giá và bán hàng, việc bán tài nguyên ban đầu diễn ra suôn sẻ hơn, dẫn đến lượng hàng tồn kho giảm.

b) Cung cấp

Tuần này (19.10-10.25) tỷ lệ hoạt động của 236 nhà máy LNG trong nước dữ liệu nghiên cứu cho thấy sản lượng thực tế là 742,94 triệu mét vuông, tỷ lệ hoạt động vào thứ Tư tuần này là 64,6%, ổn định vào tuần trước. Công suất hoạt động hiệu quả của ngày thứ Tư này là 67,64%, tăng 0,01 điểm phần trăm so với tuần trước. Số nhà máy mới bảo dưỡng và ngừng hoạt động là 1, với tổng công suất 700.000 m3/ngày đêm; Số lượng nhà máy mới hoạt động trở lại là 0, với tổng công suất 0 triệu mét vuông/ngày. (Lưu ý: Công suất nhàn rỗi được định nghĩa là ngừng sản xuất trong hơn 2 năm; Công suất hiệu quả là công suất LNG sau khi loại trừ công suất nhàn rỗi. Tổng công suất sản xuất LNG trong nước là 163,05 triệu mét khối/ngày, với 28 lần ngừng hoạt động dài hạn, 7,29 triệu mét khối/ngày công suất nhàn rỗi và 155,76 triệu mét khối/ngày công suất hiệu dụng.)

Về chất lỏng biển, tổng cộng 20 tàu chở LNG đã được tiếp nhận tại 13 trạm tiếp nhận nội địa trong chu kỳ này, tăng 5 tàu so với tuần trước và lượng hàng qua cảng là 1.291.300 tấn, tăng 37,49% so với 939.200 tấn của tuần trước. Các nước nhập khẩu chính trong chu kỳ này là Australia, Qatar và Malaysia, với lượng hàng cập cảng lần lượt là 573.800 tấn, 322.900 tấn và 160.700 tấn. Tại mỗi trạm tiếp nhận, CNOOC Dapeng tiếp nhận 3 tàu, CNPC Caofeidian và CNOOC Binhai mỗi trạm tiếp nhận 2 tàu, các trạm tiếp nhận khác mỗi trạm tiếp nhận 1 tàu.

c) Nhu cầu

Tổng nhu cầu LNG trong nước trong tuần này (18/10-24/10) là 721.400 tấn, giảm 53.700 tấn, tương đương 6,93% so với tuần trước (10/11-10,17). Tổng lượng xuất xưởng của nhà máy trong nước đạt 454.200 tấn, giảm 35.800 tấn, tương đương 7,31% so với tuần trước (11/10-10/17). Do trạm tiếp nhận và nhà máy chất lỏng đã tăng giá lô hàng, nên khả năng tiếp nhận giá cao ở hạ lưu muộn, khiến lô hàng giảm.

Về mặt hàng lỏng, tổng lượng hàng của các trạm tiếp nhận trong nước là 14.055 xe, giảm 9,48% so với 14.055 xe của tuần trước (11/10-10/17), trạm tiếp nhận tăng giá các chuyến hàng, các chuyến hàng xuôi dòng kháng cự nhiều hơn, và tổng khối lượng vận chuyển xe tăng giảm.


Thời gian đăng: Oct-27-2023